An ninh thông tin ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay
- Vấn đề đặt ra và giải pháp
Ngày nay, an ninh thông tin đã và đang đi vào
mọi ngõ ngách của đời sống xã hội và dần trở thành một bộ phận quan trọng của
an ninh quốc gia. Nguy cơ gây mất an ninh thông tin là mối đe dọa lớn và ngày
càng gia tăng đối với an ninh quốc gia. Bài viết tập trung phân tích, làm rõ
tình hình an ninh thông tin ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, chỉ rõ những
vấn đề đang đặt ra trong bảo đảm an ninh thông tin và các giải pháp trọng tâm
nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh thông tin của Việt Nam thời gian tới.
Trải qua 35 năm đổi mới, hệ
thống thông tin của Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ, phục vụ đắc lực sự lãnh
đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, đáp ứng nhu cầu thông tin của xã
hội, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Lĩnh vực viễn thông,
Internet, tần số vô tuyến điện có sự phát triển mạnh mẽ, đạt được mục tiêu số
hóa hoàn toàn mạng lưới, phát triển nhiều dịch vụ mới, phạm vi phục vụ được mở
rộng, bước đầu hình thành những doanh nghiệp mạnh, có khả năng vươn tầm khu
vực, quốc tế. Hệ thống bưu chính chuyển phát, báo chí, xuất bản phát triển
nhanh cả về số lượng, chất lượng và kỹ thuật nghiệp vụ, có đóng góp quan trọng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại của
đất nước.
Tuy nhiên, tình hình an ninh thông
tin ở Việt Nam đã và đang có những diễn biến phức tạp. Các cơ quan đặc
biệt nước ngoài, các thế lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động tình báo,
gián điệp, khủng bố, phá hoại hệ thống thông tin; tán phát thông tin xấu, độc
hại nhằm tác động chính trị nội bộ, can thiệp, hướng lái chính sách, pháp luật
của Việt Nam. Gia tăng hoạt động tấn công mạng nhằm vào hệ thống thông tin
quan trọng quốc gia, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Theo thống kê, trung bình mỗi năm,
qua kiểm tra, kiểm soát các cơ quan chức năng đã phát hiện trên 850.000 tài
liệu chiến tranh tâm lý, phản động, ân xá quốc tế, tài liệu tuyên truyền tà đạo
trái phép; gần 750.000 tài liệu tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước được tán phát
vào Việt Nam qua đường bưu chính. Từ 2010 đến 2019 đã có 53.744 lượt cổng
thông tin, trang tin điện tử có tên miền .vn bị tấn công, trong đó có 2.393
lượt cổng thông tin, trang tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nước
“.gov.vn”, xuất hiện nhiều cuộc tấn công mang màu sắc chính trị, gây ra những
hậu quả nghiêm trọng [1].
Tội phạm và vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực thông tin diễn biến phức tạp, gia tăng về số vụ, thủ đoạn tinh
vi, gây thiệt hại nghiêm trọng về nhiều mặt. Các hành vi phá hoại cơ sở hạ tầng
thông tin; gây mất an toàn, hoạt động bình thường, vững mạnh của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và hệ
thống thông tin vô tuyến điện,… đã và đang gây ra những thiệt hại lớn về kinh
tế, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân. T Theo kết quả đánh giá an
ninh mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện, trong năm 2019, chỉ tính riêng
thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới
20.892 tỷ đồng (tương đương 902 triệu USD), hơn 1,8 triệu máy tính bị mất dữ
liệu do sự lan tràn của các loại mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (ransomware),
trong đó có nhiều máy chủ chứa dữ liệu của các cơ quan, gây đình trệ hoạt động
của nhiều cơ quan, doanh nghiệp [2].
Hệ thống thông tin của Việt Nam
còn tồn tại nhiều điểm yếu, lỗ hổng bảo mật dễ bị khai thác, tấn công, xâm
nhập; tình trạng lộ, mất bí mật nhà nước qua hệ thống thông tin gia tăng
đột biến; hiện tượng khai thác, sử dụng trái phép cơ sở dữ liệu, tài nguyên
thông tin quốc gia, dữ liệu cá nhân người dùng diễn biến phức tạp; xuất hiện
nhiều dịch vụ mới, hiện đại gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát của
các cơ quan chức năng. Từ 2001 đến 2019, các cơ quan chức năng đã phát hiện hơn
1.100 vụ lộ, mất bí mật nhà nước, trong đó lộ, mất bí mật nhà nước qua hệ thống
thông tin chiếm tỷ lệ lớn với trên 80% số vụ [1]. Tháng 3/2018,
Facebook cũng đã để lộ dữ liệu cá nhân để một nhà phát triển bán lại
cho Công ty Cambridge Analityca, dẫn tới 87 triệu dữ liệu thông tin người dùng
bị lộ, trong đó có 427.466 tài khoản của người dùng Việt Nam [3].
Thực tế nêu trên đã làm xuất
hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến an ninh thông tin của Việt Nam ở cả bên trong và
bên ngoài. Ở trong nước, trước hết là nguy cơ tụt hậu về công nghệ, lệ thuộc
vào công nghệ của nước ngoài, nhất là hệ thống mạng lõi; phần mềm hệ thống,
dịch vụ thông tin của nước ngoài (nhất là dịch vụ mạng xã hội) dẫn tới mất
chủ quyền nội dung số, tài nguyên thông tin về các công ty công nghệ nước ngoài
ngày càng nghiêm trọng hơn; các đối tượng cơ hội, chống đối chính trị trong
nước, triệt để sử dụng mạng xã hội tán phát thông tin giả, thông tin xấu, độc
nhằm gây rối nội bộ, kích động biểu tình, bạo loạn.
Ở bên ngoài, các thế lực thù
địch triệt để sử dụng hệ thống thông tin để tác động, can thiệp nội bộ, hướng
lái chính sách, thao túng dư luận, thúc đẩy “cách mạng màu” ở Việt Nam; xâm
phạm độc lập, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, tiến hành chiến
tranh thông tin đối với Việt Nam. Các tổ chức phản động lưu vong, khủng
bố tăng cường hoạt động tấn công, phá hoại hệ thống thông tin quan trọng
về an ninh quốc gia; sử dụng không gian mạng để tán phát thông tin xấu, độc
hại, kích động biểu tình, bạo loạn; hình thành các hội, nhóm, các tổ chức chính
trị đối lập,… Các tổ chức tin tặc, tổ chức tội phạm thực hiện các cuộc tấn
công mạng tự phát, đơn lẻ hoặc có chủ đích nhằm vào hệ thống thông tin trọng
yếu quốc gia, làm tê liệt, gây gián đoạn hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành, quản lý kinh tế-xã hội của các cơ quan Đảng, Nhà nước.
Trong bối cảnh đó, các cơ quan,
ban, ngành ở Trung ương và địa phương đã chú trọng nghiên cứu, xây dựng, áp
dụng đồng bộ các giải pháp tăng cường đảm bảo an ninh thông tin. Bên cạnh những
kết quả đã đạt được, công tác đảm bảo an ninh thông tin ở Việt Nam hiện nay
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tiềm lực bảo đảm an ninh thông tin, cả
về con người, tài chính và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ chưa đáp ứng yêu
cầu đảm bảo an ninh thông tin trong tình hình mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước về an ninh thông tin chưa cao; năng lực phát hiện, xử lý các hoạt động
xâm hại an ninh thông tin, sự cố gây mất an ninh thông tin của các cơ quan, đơn
vị còn nhiều hạn chế; hiệu quả ứng dụng khoa học kỹ thuật trong đảm bảo an ninh
thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới,…
Hiện nay, đất nước ta đang đứng
trước những nguy cơ, thách thức lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với
sự phát triển, ứng dụng mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo, rô-bốt, công nghệ sinh
học, sẽ hình thành nên nhiều lĩnh vực mới như: “Internet công nghiệp”,
“Nhà máy thông minh”, “Thành phố thông minh”, “Xã hội siêu thông minh”,
“Chính phủ điện tử”… hoạt động trên môi trường không gian mạng, tạo sự đột phá
về phát triển kinh tế, chính trị - xã hội. Xu hướng Internet kết nối vạn
vật (IoT), gồm Internet kết nối với năng lượng, dịch vụ, truyền thông đa phương
tiện, con người, vạn vật sẽ thay đổi phương thức hoạt động của cả một nền kinh
tế, thói quen, tâm lý, văn hóa xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội cũng như
đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam những năm tới chủ yếu dựa trên nền tảng kỹ
thuật số. Với xu thế phát triển của nền kinh tế chia sẻ, chuyển đổi số,… công
nghiệp công nghệ thông tin sẽ trở thành ngành kinh tế chủ đạo, quyết định sự
phát triển nhanh, bền vững của quốc gia.Do đó, để nâng cao hiệu quả bảo đảm an
ninh thông tin thời gian tới, cần quan tâm thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về
an ninh thông tin và bảo đảm an ninh thông tin. Cần nhận thức rõ, an ninh thông tin là độc
lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trên không gian thông tin, sự an toàn, phát
triển ổn định, vững mạnh của lĩnh vực thông tin, hệ thống thông tin quốc gia.
An ninh thông tin là nội dung trọng tâm của an ninh quốc gia trong điều kiện
mới, có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề an ninh truyền thống khác như an
ninh chính trị nội bộ, an ninh quân sự, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh kinh
tế, an ninh xã hội. Nguy cơ gây mất an ninh thông tin là mối đe dọa lớn và ngày
càng gia tăng đối với an ninh quốc gia, an ninh quốc tế. Chính vì vậy, đảm
bảo an ninh thông tin là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn
dân, của cả hệ thống chính trị trong đó lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt.
Để đảm bảo an ninh thông tin cần coi trọng và sử dụng đồng bộ các biện pháp
chính trị, pháp luật, khoa học kỹ thuật, tuyên truyền - giáo dục, tổ chức –
hành chính, kinh tế, ngoại giao và nghiệp vụ chuyên môn.
Thời gian tới, các cơ quan chức năng
cần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao ý thức của cán bộ, đảng viên
và quần chúng nhân dân; chú trọng tuyên truyền, phổ biến cho học sinh, sinh
viên về các nguy cơ, các yếu tố gây mất an ninh, đe dọa gây mất an ninh thông
tin. Từ đó, nâng cao ý thức trong sử dụng các dịch vụ thông tin, nhất là dịch
vụ do nước ngoài cung cấp; nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng nhận biết,
tiếp nhận thông tin, khả năng tự vệ, “miễn dịch” trước những thông tin giả,
thông tin xấu, độc hại. Có kế hoạch đưa nội dung về nhận diện các nguy cơ, yếu
tố gây mất an ninh thông tin và trách nhiệm đảm bảo an ninh thông tin vào hệ
thống giáo dục quốc dân, qua đó giáo dục ý thức, trách nhiệm, nâng cao nhận
thức cho toàn dân về vấn đề này.
Hai là, nghiên cứu xác lập chủ
quyền quốc gia trên không gian mạng, bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, chủ
quyền và lợi ích quốc gia trên không gian thông tin quốc tế; bảo vệ và khai
thác có hiệu quả tài nguyên thông tin quốc gia.
Việt Nam cần tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
quốc tế, tập trung nghiên cứu, xác lập không gian mạng quốc gia (với cơ sở
hạ tầng, dịch vụ, khung pháp lý) nhằm sớm khẳng định chủ quốc gia trên không
gian mạng. Xác định các yếu tố cấu thành và đẩy mạnh giải pháp nhằm thực thi có
hiệu quả chủ quyền quốc gia trên không gian thông tin: (1) Phát triển công nghệ
phần cứng nhằm bảo đảm tự chủ về phương tiện, thiết bị, nhất là hệ thống mạng
lõi, máy tính, điện thoại, cơ sở hạ tầng thông tin; (2) Phát triển công nghệ
phần mềm nhằm tạo lập hệ sinh thái phần mềm riêng, bao gồm: hệ điều hành, công
cụ tìm kiếm, mạng xã hội và các ứng dụng dịch vụ trên Internet; (3) Phát triển
công nghệ bảo mật riêng và hệ thống kiểm tra, giám sát an ninh nhằm chủ động
phát hiện và ngăn chặn, chặn lọc các thông tin giả, thông tin xấu, độc hại; (4)
Xây dựng hệ cơ sở dữ liệu quốc gia tích hợp, liên thông, an toàn (Big Data) tạo
thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số; (5) Xây dựng hệ
thống tuyên truyền, định hướng thông tin hiện đại, an toàn và có trách nhiệm;
hệ thống tấn công, phòng thủ riêng, đặc biệt là hệ thống thông tin trọng yếu
của Đảng, Nhà nước và trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng; (6) Xây dựng, hoàn
thiện thể chế, chính sách, pháp luật và thị trường dịch vụ phát triển.
Trước hết, cần có cơ chế đặc thù để tập trung
nguồn lực xây dựng cho bằng được mạng xã hội, công cụ tìm kiếm, hệ điều hành
tiện ích riêng của Việt Nam tương thích với quốc tế, có chỗ đứng vững chắc trên
thị trường và trong xã hội. Điều này một mặt vừa khẳng định vị thế quốc
gia, đảm bảo độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trên không
gian mạng, từng bước hạn chế sự lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài,
nâng cao khả năng bảo mật và khả năng tự chủ trong đảm bảo an ninh thông
tin, đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia, tạo thuận lợi cho việc bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, chủ động trong việc tiếp nhận
thông tin và tạo thuận lợi trong thông tin, tuyên truyền của Đảng, Nhà
nước, ngăn chặn có hiệu quả các thông tin xấu, độc hại, gia tăng khả năng
đảm bảo bí mật thông tin cá nhân người dùng. Đồng thời cần có kế hoạch
hợp lý khai thác và bảo vệ tài nguyên thông tin quốc gia phục vụ phát triển
kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh thông tin. Tập trung xây dựng, hoàn thiện chính sách,
pháp luật về bảo đảm an ninh thông tin, tạo môi trường pháp lý để bảo đảm sự an
toàn, tin cậy cho nền kinh tế số, cho việc chia sẻ dữ liệu số, cho quản lý hoạt
động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin qua biên giới vào Việt
Nam. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng luật về chống thông tin giả, thông tin
xấu, độc hại; luật bảo vệ thông tin cá nhân. Có cơ chế công khai giám sát,
chặn lọc thông tin xuyên tạc, sai sự thật trên không gian mạng; quy định cụ thể
và thực hiện nghiêm túc quy định bắt buộc sử dụng thông tin
thật khi đăng ký tài khoản trên mạng. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên
không gian mạng; quy định về bảo vệ, kiểm tra, sử dụng tài nguyên thông tin
quốc gia, dữ liệu cá nhân người dùng.
Bốn là, bảo đảm tuyệt đối an
toàn các hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, hệ thống thông tin quan trọng
về an ninh quốc gia, nâng
cao năng lực phòng thủ, phục hồi sau các cuộc tấn công vào hệ thống thông tin,
đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động xâm phạm an ninh thông tin của các thế
lực thù địch và các loại tội phạm.
Chính phủ cần tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng
hiện đại, băng thông đủ rộng để vượt qua các cuộc tấn công gây nghẽn mạng, có
hệ thống máy lưu trữ dự phòng để chuyển hướng dữ liệu trước các cuộc tấn công
và phục hồi sau tấn công mạng. Thường xuyên rà soát, phát hiện, khắc phục
lỗ hổng bảo mật trên toàn hệ thống, bổ sung thiết bị, phần mềm chuyên dụng có
khả năng kiểm tra, kiểm soát an ninh, an toàn thông tin trên môi trường mạng
viễn thông, internet, tần số vô tuyến điện,… Xây dựng, triển khai thực
hiện các giải pháp kỹ thuật chuyên biệt nhằm kiểm tra, phát hiện các
nguy cơ gây mất an ninh thông tin. Tổ chức diễn tập hàng năm về phòng,
chống tấn công mạng cấp quốc gia với sự tham gia của cơ quan chính phủ, các tập
đoàn kinh tế trọng yếu, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet
và các cơ quan, tổ chức có liên quan, đảm bảo xử lý kịp thời các nguy cơ
gây mất an ninh, đe dọa gây mất an ninh thông tin ở Việt Nam.
Chú trọng dự báo, triển khai các giải
pháp đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động xâm hại an ninh thông tin của các
đối tượng, nhất là hoạt động tấn công làm tê liệt hệ thống thông tin trọng
yếu quốc gia; ý đồ sử dụng trí tuệ nhân tạo (Al), dữ liệu lớn (big Data) để
thao túng, kích động dư luận xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy “cách mạng màu” ở
Việt Nam; và âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch, bá quyền quân sự hóa không
gian thông tin, phát động chiến tranh thông tin đối với Việt Nam.
Năm là, tập trung nguồn lực
để xây dựng, từng bước phát triển nền công nghiệp công nghệ thông tin, đặc
biệt là công nghiệp an ninh thông tin (an ninh mạng) của Việt Nam.
Với nguồn lực của Việt Nam hiện nay, cần tập
trung phát triển công nghiệp an ninh thông tin theo hướng lưỡng dụng, kết hợp
cả trong lĩnh vực dân sự với bảo đảm an ninh, quốc phòng; đối tác công tư. Nhà
nước cần có cơ chế đặc biệt, triển khai ngay các giải pháp đi tắt, đón đầu để
từng bước làm chủ và xuất khẩu công nghệ thông tin. Khuyến khích nghiên cứu,
phát triển, sử dụng các phần mềm, dịch vụ thông tin riêng của Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu bảo mật thông tin, sự an toàn của bí mật nhà nước, giám sát an ninh
mạng. Xây dựng doanh nghiệp công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ viễn thông,
Internet trong nước lớn mạnh, làm chủ thị trường, hình thành lực lượng doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ, có năng lực tự sản xuất các trang thiết bị an ninh
thông tin.
Chính phủ cần ban hành cơ chế khuyến khích, hỗ
trợ và huy động các tổ chức, cá nhân khởi nghiệp về công nghệ an ninh mạng, các
doanh nghiệp công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet trong
nước làm chủ thị trường; hình thành các doanh nghiệp có năng lực tự sản xuất,
cung cấp dịch vụ, các trang thiết bị, giải pháp gắn với bảo vệ an ninh mạng,
tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghệ thông tin. Thành lập các quỹ đầu
tư cho nghiên cứu, phát triển các giải pháp đảm bảo an ninh thông tin.
Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, an
ninh thông tin ngày càng trở thành một nội dung quan trọng của an ninh quốc
gia. Nghiên cứu về an ninh thông tin, bảo đảm an ninh thông tin vì vậy luôn là
một yêu cầu bức thiết hiện nay. Các phân tích về tình hình an ninh thông tin,
vấn đề đặt ra và những giải pháp bảo đảm an ninh thông tin trong bài viết chỉ
là những kết quả nghiên cứu ban đầu, xin mạnh dạn nêu lên để cùng trao đổi./.
Thiếu tướng, PGS.TS. Lê Văn Thắng
Giám đốc Học viện An ninh nhân dân